Công dụng Hỗn hống natri

Vào thập niên 1880, các sinh viên của nhà hóa học Robert Bunsen là Julius Tafel và Hans Goldschmidt đã tìm ra và giới thiệu hỗn hống này. Hỗn hống natri được sử dụng trong hóa học hữu cơ như một chất khử mạnh và an toàn hơn so với natri. Một ví dụ về việc sử dụng nó là trong phản ứng thoái biến Emde.

Hỗn hống natri được sử dụng trong thiết kế đèn hơi natri. Natri có vai trò tạo màu sắc phù hợp, thủy ngân điều chỉnh các đặc tính điện của đèn.

Điện phân buồng thủy ngân

Hỗn hống natri là phụ phẩm của quá trình sản xuất clo bằng phương pháp điện phân tế bào thủy ngân theo công nghệ Castner-Kellner. Trong buồng điện phân, nước muối (dung dịch natri clorua đậm đặc) được điện phân giữa cathode là thủy ngân lỏng và anodetitan hoặc than chì. Clo được hình thành ở anode, còn natri hình thành ở cathode hòa tan vào thủy ngân, tạo ra hỗn hống natri. Thông thường hỗn hống natri này được rút ra và phản ứng với nước trong một "buồng phân hủy", tạo ra khí hydro, dung dịch natri hydroxit đậm đặc. Thủy ngân sinh ta lại được tái chế trong suốt quá trình. Về lý thuyết, tất cả thủy ngân sẽ được tái chế hoàn toàn, nhưng trong thực tế chắc chắn một phần nhỏ sẽ bị thất thoát. Do những lo ngại về thủy ngân thoát ra ngoài môi trường, công nghệ sử dụng buồng thủy ngân nói chung đã được các nhà máy thay thế bằng các cathode ít độc hại hơn.